Ung thư đại-trực tràng là loại ung thư xuất hiện và phát triển tại đại tràng và trực tràng. Đây bệnh lý ung thư đường tiêu hóa phổ biến, có tỷ lệ mắc cao thứ ba và tỷ lệ tử vong cao thứ tư trong các bệnh ung thư hay gặp trên thế giới.
Vai
trò quan trọng của sàng lọc ung thư đại trực tràng
Sàng lọc
là quá trình tìm kiếm phát hiện ung thư hoặc tiền ung thư khi người
bệnh chưa có triệu chứng lâm sàng của bệnh. Sàng lọc thường xuyên ung
thư đại-trực tràng là vũ khí quan trọng nhất trong chẩn đoán sớm và
điều trị ung thư đại-trực tràng. Tỷ lệ tử vong do ung thư đại-trực
tràng đã giảm trong vài chục năm gần đây và một trong những lý do là
sự phát hiện sớm các polyp ở đại-trực tràng khi sàng lọc trước khi
chúng phát triển thành ung thư. Một polyp đại-trực tràng cần thời
gian 10-15 năm để phát triển thành ung thư. Việc sàng lọc thường xuyên
giúp phát hiện và cắt bỏ các polyp trước khi phát triển thành ung
thư và do đó có thể dự phòng nhiều trường hợp ung thư đại-trực
tràng. Sàng lọc thường xuyên cũng giúp phát hiện sớm ung thư
đại-trực tràng khi khối u còn nhỏ, chưa xâm lấn, di căn và việc điều
trị sẽ dễ dàng hơn.
Hình 2. Quá trình tiến triển tự nhiên của polyp thành ung thư đại-trực tràng
Khi ung thư đại-tràng được phát hiện ở giai đoạn sớm, tỷ lệ
sống thêm tương đối sau 5 năm đạt tới 90%. Tuy nhiên, tại Mỹ chỉ có 4
trong 10 ca ung thư đại-trực tràng được chẩn đoán ở giai đoạn sớm. Tỷ
lệ sống thêm của bệnh nhân giảm thấp rõ rệt khi ung thư đại-trực
tràng đã xâm lấn, di căn. Đáng tiếc là chỉ có trên 50% người Mỹ có
nguy cơ bị ung thư đại-trực tràng được sàng lọc. Tại Việt Nam, hiện
nay chưa có chương trình sàng lọc ung thư đại-trực tràng cho cộng đồng
và đa số bệnh nhân được phát hiện ở giai đoạn bệnh đã tiến triển.
1. Các yếu tố nguy cơ của ung thư đại trực
tràng
Yếu tố
nguy cơ là các yếu tố có thể ảnh hưởng tới khả năng mắc bệnh của
con người. Các loại ung thư khác nhau có các yếu tố nguy cơ khác nhau.
Có một số yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được như hút thuốc nhưng
có các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi được như tuổi và tiền sử
gia đình. Tuy nhiên, có một hoặc thậm chí nhiều yếu tố nguy cơ cũng
không có nghĩa là sẽ bị bệnh và có một số người bị bệnh nhưng lại
không có yếu tố nguy cơ nào.
Các yếu
tố nguy cơ làm tăng khả năng bị ung thư đại-trực tràng bao gồm:
- Các
yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được:
+ Béo phì.
+ Ít hoạt
động thể lực.
+ Chế độ
ăn nhiều thịt đỏ (thịt bò, lợn, cừu, gan) và thịt chế biến công
nghiệp (xúc xích, thức ăn nhanh), thịt nấu ở nhiệt độ rất cao (rán,
nướng).
+ Hút
thuốc.
+ Uống
nhiều rượu bia.
- Các
yếu tố nguy cơ không thể thay đổi được:
+ Tuổi cao:
tuổi càng cao càng có nguy cơ bị ung thư đại trực tràng, đặc biệt
nguy cơ tăng cao rõ rệt sau 50 tuổi.
+ Tiền sử
bị polyp hoặc ung thư đại-trực tràng.
+ Tiền sử
bị viêm đại-trực tràng, bao gồm cả bệnh Crohn.
+ Tiền sử
gia đình bị ung thư hoặc polyp dạng tuyến đại-trực tràng: theo thống
kê cứ 1 trong 5 bệnh nhân ung thư đại-trực tràng có thành viên trong gia
đình cũng bị ung thư đại-trực tràng, thường gặp nhất ở bố mẹ, anh
chị em ruột.
+ Các hội
chứng di truyền: 5 – 10% bệnh nhân ung thư đại-trực tràng có các đột
biến gen di truyền, phổ biến nhất là các trường hợp bị đa polyp dạng
tuyến gia đình (familial adenomatous polyposis - FAP) và hội chứng Lynch
(ung thư đại tràng không đa polyp di truyền – hereditary non-polyposis colon
cancer – HNPCC). Các bệnh nhân này thường bị bệnh khi tuổi còn trẻ.
+ Chủng
tộc và dân tộc: người Mỹ gốc Phi và người Do Thái gốc Đông Âu có tỷ lệ mắc
và tử vong ung thư đại-trực tràng cao nhất trong các nhóm chủng tộc.
+ Đái tháo đường tuýp 2: bệnh nhân đái tháo đường type 2 có nguy cơ cao và
tiên lượng kém hơn khi được chẩn đoán ung thư đại trực tràng.
2. Dự phòng ung thư đại-trực tràng
Không thể
dự phònghoàn toàn được ung thư đại-trực tràng nhưng có thể giảm nguy cơ
mắc bệnh bằng cách sàng lọc và kiểm soát các yếu tố nguy cơ có thể
thay đổi được.
- Sàng lọc ung thư đại-trực tràng
Với sàng lọc thường xuyên, đa số polyp đại-trực tràng được phát hiện và cắt bỏ trước khi phát triển thành ung thư. Sàng lọc cũng giúp phát hiện ung thư đại trực tràng ở giai đoạn sớm có khả năng điều trị khỏi cao.
Hội ung thư Mỹ khuyến cáo nên bắt đầu sàng lọc ở lứa tuổi 50 cho
những người không có nguy cơ cao bị ung thư đại-trực tràng. Đối với
những người có nguy cơ cao như có tiền sử gia đình bị ung thư
đại-trực tràng có thể có lợi ích khi sàng lọc ở lứa tuổi trẻ hơn.
Nếu có tiền sử gia đình bị ung thư đại-trực tràng và có các yếu
tố nguy cơ của ung thư đại-trực tràng, bạn nên đến khám bác sỹ chuyên
khoa ung thư để được tư vấn về nguy cơ mắc bệnh và các biện pháp
sàng lọc cũng như xét nghiệm gen di truyền.
- Điều chỉnh cân nặng, hoạt động
thể lực và chế độ ăn
+ Giảm cân, tránh béo phì, đặc biệt béo bụng.
+ Luyện
tập thể dục, thể thao thường xuyên với cường độ mạnh.
+ Chế độ
ăn nhiều rau, hoa quả, ngũ cốc nguyên hạt, hạn chế thịt đỏ và thịt
đã qua chế biến công nghiệp.
+ Không
uống nhiều bia, rượu.
+ Không hút
thuốc.
+ Bổ sung
canxi và vitamin D.
+ Sử dụng
thường xuyên aspirin và các thuốc non-steroid khác làm giảm nguy cơ bị ung
thư đại-trực tràng tuy nhiên các thuốc này có thể gây dụng phụ trên dạ dày. Do
đó cần tư vấn bác sỹ trước khi quyết định uống thường xuyên các
loại thuốc này.
+ Liệu pháp hormone cho phụ nữ mãn kinh: dùng estrogen và progesterone sau khi
mãn kinh làm giảm nguy cơ bị ung thư đại-trực tràng nhưng có thể làm tăng
nguy cơ ung thư vú và bệnh lý tim mạch.Do đó cần thảo luận với bác sỹ
về các lợi ích và nguy cơ trước khi sử dụng liệu pháp hormon.
3.
Các triệu chứng của ung thư đại-trực tràng
Ung thư
đại-trực tràng giai đoạn sớm thường không có triệu chứng, do đó sàng
lọc được khuyến cáo cho tất cả mọi người trên 50 tuổi.
Các triệu chứng của ung thư đại
trực tràng bao gồm:
- Sự thay
đổi trong thói quen đại tiện như tiêu chảy, táo bón hoặc phân dẹt kéo dài
trong một vài ngày.
- Cảm giác
buồn đi ngoài và đi ngoài không hết.
- Đại tiện
ra máu lẫn với phân, đại tiện phân màu đen.
- Đau bụng.
- Yếu, mệt
mỏi thường xuyên.
- Giảm cân
không rõ nguyên nhân
4. Các phương pháp sàng lọc phát hiện sớm ung thư đại-trực tràng
4.1.
Các phương pháp phát hiện cả polyp và ung thư đại-trực tràng
- Nội soi
đại tràng sigma ống mềm: là kỹ thuật xâm nhập, có thể đánh giá trực
tiếp tổn thương và can thiệp sinh thiết khối u hoặc cắt polyp.
- Nội soi đại tràng: đánh giá toàn bộ khung đại tràng và trực tràng, có thể sinh thiết khối u hoặc cắt polyp nếu phát hiện được khi nội soi.
- Chụp
khung đại tràng cản quang kép: nếu phát hiện hoặc nghi ngờ tổn thương
cần tiến hành soi đại tràng để đánh giá xác chẩn.
- Chụp cắt
lớp vi tính đại tràng có dựng hình nội soi ảo: là kỹ thuật không
xâm nhập, có thể thay thế cho nội soi đại-trực tràng khi bệnh nhân
không muốn hoặc không thể nội soi đại trực tràng ống mềm. Tuy nhiên
không thể sinh thiết khối u hoặc cắt polyp.
4.2. Các phương pháp chỉ phát hiện ung
thư đại-trực tràng
- Xét
nghiệm máu tiềm ẩn trong phân (fecal occult blood test): do các mạch máu
của polyp hoặc khối u đại-trực tràng thường dễ bị tổn thương khi phân
đi qua, gây chảy máu vi thể, máu dính vào phân, hiếm khi nhìn thấy
bằng mắt thường. Đây là xét nghiệm đơn giản, dễ làm với chi phí
thấp, có thể tiến hành tại nhà. Máu trong phân có thể do nhiều
nguyên nhân như polyp, ung thư, viêm loét đại trực tràng, trĩ… Do đó nếu
xét nghiệm dương tính cần nội soi đại-trực tràng ống mềm để kiểm
tra.
- Xét nghiệm hóa miễn dịch phân (fecal immunochemical test): phát hiện
hemoglobin protein là thành phần trong hồng cầu của người. Xét nghiệm
này còn chưa phổ biến tại Việt Nam.
- Xét
nghiệm DNA trong phân (stool DNA test): phát hiện các bất thường AND do
đột biến gen của các tế bào ung thư đại-trực tràng. Xét nghiệm này
chưa được tiến hành tại Việt Nam.
5. Khuyến cáo của Hội Ung thư Mỹ
về sàng lọc ung thư đại-trực tràng
5.1.
Đối với người có nguy cơ mắc bệnh trung bình (trên 50 tuổi)
- Nội soi
đại tràng sigma ống mềm mỗi 5 năm
- Nội soi
đại tràng mỗi 10 năm.
- Chụp cản
quang kép dùng thuốc thụt barium mỗi 5 năm*.
- Chụp cắt
lớp vi tính đại tràng nội soi ảo mỗi 5 năm*.
- Xét nghiệm
tìm máu tiềm ẩn trong phân hàng năm*.
- Xét nghiệm
hóa miễn dịch phân hàng năm*.
- Xét nghiệm
tìm DNA mỗi 3 năm*.
*: Nếu kết
quả các xét nghiệm này dương tính cần nội soi đại tràng kiểm tra.
5.2. Đối với người có nguy cơ cao bị ung thư đại-trực tràng
Những
người có yếu tố nguy cơ cao bị ung thư đại-trực tràng bao gồm:
- Có tiền
sử bị ung thư đại-trực tràng hoặc đa polyp.
- Có tiền sử viêm ruột: vêm loét đại tràng, bệnh Crohn.
- Có tiền sử
gia đình bị ung thư đại-trực tràng hoặc polyp.
- Có tiền sử
gia đình bị các hội chứng ung thư đại-trực tràng di truyền: hội
chứng đa
polyp gia đình
hoặc hội chứng Lynch.
Những người này
nên bắt đầu sàng lọc sớm trước 50 tuổi và tiến hành thường xuyên hơn.
Ung thư đại-trực
tràng có tỷ lệ mắc bệnh ngày càng cao và có liên quan chặt chẽ với chế
độ ăn uống, sinh hoạt. Có thể dự phòng căn bệnh này bằng cách điều
chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt khoa học, hợp lý. Các biện pháp sàng
lọc ung thư đại-trực tràng nên được áp dụng đối với người trên 50
tuổi và người có nguy cơ cao bị ung thư đại-trực tràng. Sàng lọc có
ý nghĩa quan trọng giúp giảm nguy cơ mắc bệnh, chẩn đoán khi bệnh còn ở
giai đoạn sớm giúp điều trị hiệu quả, giảm tỷ lệ tái phát và tử vong cho
người bệnh. Nếu bạn trên 50 tuổi hoặc có nguy cơ cao bị ung thư
đại-trực tràng, nên đến khám và tư vấn tại các cơ sở khám chữa
bệnh có uy tín và kinh nghiệm về sàng lọc, chẩn đoán và điều trị
ung thư đại-trực tràng. Hiện nay, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 có
thể thực hiện được tất cả các phương pháp sàng lọc, chẩn đoán và
điều trị ung thư đại-trực tràng với chất lượng cao.
Bệnh nhân cần tư
vấn về dự phòng, sàng lọc, chẩn đoán và điều trị ung thư đại-trực
tràng xin liên hệ Phòng khám Xuân Tuyên, Đ/c: Số
11 Đường 24 - 8, Lê Hồng Phong, Phủ Lý, Hà Nam.
HOTLINE: 0936051176
Nguồn: American Cancer Society, Colorectal cancer prevention and early
detection.
|
Phủ lý, ngày 26 tháng 10 năm 2020 Phòng khám Xuân Tuyên |
0 nhận xét :
Đăng nhận xét